Nhận xét Phạm_Sư_Mạnh

Danh sĩ thời NguyễnPhan Huy Chú viết:

Ông (Phạm Sư Mạnh) có tài khí hùng hồn hơn người, nguồn thơ lai láng; đi khắp muôn dặm non sông, đến đâu cũng ngâm đề khắc để lại, lời đều hào hùng thanh thoát đáng đọc.

Khi nói về Hiệp Thạch tập, Phan Huy Chú lại khen là: Tình thơ cao siêu, hào phóng, (ông) là một danh gia ở cuối đời Trần[3].

Gần đây, Phạm Sư Mạnh được một số nhà nghiên cứu đánh giá là một trí thức tích cực, sống có hoài bão, mang nặng ưu tư trước bao biến thiên của thời cuộc. Cho nên trong thơ ông, ngoài cái hay, còn có một màu sắc thời sự nóng hổi, mỗi bài thơ thường đánh dấu một việc làm, một hoạt động chính trị của tác giả, như: Lạng Sơn đạo trung (Trên đường đi Lạng Sơn), Hành dịch đăng gia sơn (Nhân đi việc quan, lên núi nơi quê nhà), Hộ giá Thiên Trường thư sự (Ghi lại việc hầu vua về Thiên Trường), Án Thao Giang lộ (Đi kinh lý lộ Thao Giang), Hành quận (Đi kinh lý trong quận),...

Bên cạnh đó, tiếp tục truyền thống thơ yêu nước đời Trần, thơ ông nhắc lại những chiến công oanh liệt chống ngoại xâm của dân tộc Việt, như: Hành dịch đăng gia sơn (Nhân đi việc quan, lên núi nơi quê nhà), Chi Lăng động (Động Chí Lăng),...

Ngoài ra, trong số ấy cũng có không ít bài ca ngợi non sông và các danh lam, như: Quá Hoàng Long động (Qua động Hoàng Long), Tam Thanh động (Động Tam Thanh), Đăng Dục Thúy sơn đề (Lên núi Dục Thúy đề thơ), Đề Cam Lộ tự (Đề vịnh chùa Cam Lộ), Du Phật Tích Sơn ngẫu đề (Thăm chùa núi Phật Tích ngẫu hứng đề thơ), Đăng Thiên Kỳ sơn lưu đề [kỳ 1] (Lên núi Thiên Kỳ lưu đề, kỳ 1),...

Tuy nhiên, do tác giả phải chứng kiến bước đường suy vong của nhà Trần, nên trong thơ cũng đã phảng phất chút u hoài và nỗi buồn nhớ về một quá khứ vàng son, như bài: Đông Sơn tự hồ thượng lâu (Lầu trên hồ chùa Đông Sơn), Chu trung tức sự (Cảm xúc trên thuyền), Quá An phủ Nguyễn Sĩ Cố phần (Đi qua mộ An phủ sứ Nguyễn Sĩ Cố),Sơn hành [kỳ 2] (Đi trên núi, kỳ 2),...[4].